Nghệ thuật trang trí tượng uyên ương

Trong nghệ thuật trang trí trên mái ngói kiến trúc Việt Nam từ TK X đến đầu TK XV, xuất hiện hai môtip trang trí độc đáo là hình lá đề và tượng uyên ương. Hai môtip trang trí này đã tạo nên một dấu ấn nghệ thuật riêng biệt trong trang trí kiến trúc ở Bắc Việt Nam. Tượng uyên ương thuộc loại tượng tròn (còn gọi là tượng vịt). Trong một số bài viết trước đây có đề cập đến loại hình này phát hiện trong một số di tích (1), hoặc trong nghiên cứu chung với các trang trí khác trên mái ngói kiến trúc (2). Tuy nhiên, các công bố đó đều chưa mang tính chất nghiên cứu hệ thống riêng về loại tượng trang trí này. Sự tiến triển và đặc trưng của tượng uyên ương qua các thời kỳ lịch sử chưa được đề cập đến. Ý nghĩa của tượng uyên ương trong trang trí trên mái kiến trúc chưa được làm rõ. Trên cơ sở hệ thống các nguồn tư liệu đã được phát hiện và khai quật khảo cổ học, chúng tôi mong muốn bước đầu giải quyết các vấn đề trên.


Sự xuất hiện của tượng uyên ương

Theo các phát hiện khảo cổ học, cho đến nay đã phát hiện thấy tượng uyên ương có ở hơn 20 di tích kiến trúc, niên đại từ TK X đến TK XIV và đầu TK XV, thuộc miền Bắc Việt Nam. Các di tích này rải rác ở nhiều tỉnh thành như Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hòa Bình, Ninh Bình…

Cũng như hình lá đề, tượng uyên ương có ở các loại hình di tích như cung điện, phủ đệ, chùa, tháp, đàn tế … tức là công trình của nhà nước, công trình tôn giáo hoặc của tầng lớp người giàu có, quyền thế. Trang trí tượng uyên tương chưa từng được phát hiện ở những công trình bình dân.

Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy tượng uyên ương được trang trí trên các loại ngói: ngói ống, ngói bò nóc và ngói mũi sen. Tượng uyên ương phổ biến trên ngói bò là trang trí ở chính giữa phần lưng viên ngói và được lợp ở bờ nóc, bờ dải của bộ mái. Đôi khi, tượng uyên ương không đứng đơn lẻ mà được kết hợp với các bộ phận trang trí khác như hình lá đề hoặc đầu ngói ống. Hình thức kết hợp này thường xuất hiện trong thời Trần. Cũng có trường hợp tượng uyên ương trang trí ở phần lưng phía đầu viên ngói ống, phần đầu ngói trang trí hoa sen như đã thấy ở Thăng Long (địa điểm số 18 – Hoàng Diệu và số 11 – Lê Hồng Phong). Một kiểu trang trí khác là kết hợp giữa hình lá đề và tượng uyên ương trang trí trên ngói mũi sen ở di tích thời Trần như Tam Đường (Thái Bình).

Trên mái kiến trúc, tùy vào từng vị trí thích hợp mà tượng uyên ương được trang trí gắn thêm các bộ phận trên mái khác nhau: gắn trên ngói bò lợp ở bờ nóc hay bờ dải, gắn trên ngói mũi sen hoặc ngói ống lợp diềm mái. Như vậy, có thể thấy tượng uyên ương được lợp ở mọi vị trí trên mái kiến trúc như diềm mái, nóc mái hay bờ dải mái, tạo cho công trình kiến trúc thêm đẹp và trang trọng.

Tượng uyên ương có dáng chung là đầu ngẩng cao, mỏ dẹt hướng lên trên, thân tròn lẳn, đuôi uốn cong lên phía trên. Toàn bộ thân tượng được gắn thêm trên lưng ngói. Qua mỗi thời kỳ, tượng uyên ương, có những biến đổi và thể hiện những đặc trưng khác nhau.

Tượng uyên ương qua các thời kỳ lịch sử

Tượng uyên ương TK X

Tượng uyên ương đầu tiên thuộc thế kỷ này được phát hiện ở di tích cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Cuộc khai quật địa điểm số 18 – Hoàng Diệu ở kinh đô Thăng Long (Hà Nội) cũng đã bổ sung thêm một số tượng uyên ương có niên đại thuộc giai đoạn này.

Tượng uyên ương TK X có đặc điểm chung là thân tượng có dáng thon lẳn, ngắn, dài hoặc béo mập. Thân uốn cong song song với hướng đuôi. Cổ cao, mỏ dẹt, mắt tròn. Hai cánh khép sát thân, được thể hiện hai đến ba lớp lông vũ bằng các đường vạch ngang. Chân không thể hiện rõ. Đuôi ngắn vuốt nhọn uốn cong lên phía trên, từ một đến hai lớp. Lớp lông thể hiện bằng các vạch dọc theo thân đuôi. Quan sát cho thấy lớp lông vũ tượng uyên ương ở di tích Hoa Lư (Ninh Bình) thường thể hiện là những lớp vạch thô và thưa hơn tượng uyên ương ở Thăng Long. Loại tượng này ở Thăng Long được thể hiện mềm mại hơn và không thể hiện rõ cánh và chân. Toàn bộ thân tượng để trơn. Tượng uyên ương giai đoạn này có ở hai tư thế: hướng thẳng về phía trước, thu cổ hoặc ngoảnh cổ về phía sau, vươn ức. Tuy nhiên, loại tượng ngoảnh cổ về phía sau hiện thấy ở di tích cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Tượng có kích thước khá lớn (dài 34 – 36cm, cao 16 – 20cm).

Tượng uyên ương TK X được làm bằng chất liệu đất nung mịn, độ nung cao, màu đỏ, đỏ hồng hoặc đỏ sắc vàng. Toàn bộ thân tượng được đắp thêm trên thân ngói bò nóc và cho đến nay chưa thấy có ở các loại ngói khác.

Nhìn tổng thể, các chi tiết cấu trúc và đường nét của tượng uyên ương TK X đều thể hiện to mập, khỏe mạnh. Các chi tiết giản lược và ít được trang trí. Chất liệu thường để mộc và không tráng men.

Tượng uyên ương TK XI – XII

Trang trí trên mái kiến trúc thời Lý tiếp tục truyền thống trang trí tượng uyên ương từ thời Đinh, Tiền Lê. Môtip trang trí này có mặt ở hầu khắp các di tích thời L‎ý như chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh), tháp Tường Long (Hải Phòng), chùa tháp Long Đọi (Hà Nam), tháp Ngô Xá (Nam Định), kinh đô Thăng Long (Hà Nội) … Nghiên cứu tổng quan tượng uyên ương ở các di tích thời L‎ý cho thấy, tượng có đặc điểm chung là đầu hướng thẳng về phía trước. Tượng được chạm khắc tỉ mỉ, chi tiết. Các chi tiết của tượng được thể hiện rõ. Tượng uyên ương thời L‎ý có nhiều dáng và tư thế khác nhau nhưng nhìn chung, có 3 dạng như sau:

Dạng thứ nhất, tượng được thể hiện rõ chi tiết các bộ phận. Đầu vươn thẳng ngang các chi tiết mào, mỏ, mang tai và bờm thể hiện rõ. Mồm mở to, ngậm ngọc. Cổ dài, uốn cong gấp khúc, vươn ức to mập. Phần cổ được tạo thêm hai đường chỉ nổi hai bên, giữa là một băng vạch ngang hoặc đôi khi để trơn, hai bên thể hiện bằng các nét chấm hất, rất chi tiết và dày. Thân tượng có dáng thon lẳn, dài hoặc thuôn mập, phần lưng phía gần cổ hơi nổi cao thành một khối. Toàn bộ thân tượng phủ kín, thể hiện lông vũ là những dải ấn lõm như hình mép vỏ sò, những dải chấm hất mịn tròn hoặc hình tam giác nhỏ. Đôi chỗ trên phần thân tượng có những lỗ chấm tròn, thưa. Thân tượng được làm liền một khối nhưng phần cánh được làm rời, sau đó ghép nối với thân. Cánh uốn cong, từ 3 đến 5 lớp, bằng các đường khắc dọc hoặc dấu hỏi. Cánh xòe hơi chếch, hướng thẳng lên phía trên hoặc xòe rộng ngang sang hai bên. Đuôi có 2 lớp uốn cong, vuốt nhọn ở phần đầu. Chân mập chụm lại, thể hiện rõ móng và khép lại ở tư thế đứng. Phía khuỷu chân thường có dải mây dài uốn cong bay theo chiều thân tượng. Dạng này khá phổ biến ở các di tích kiến trúc thời Lý.


 Tượng uyên ương thời Lý, chùa Phật Tích. Ảnh: Trần Anh Dũng

Dạng thứ hai là tượng uyên ương mang các đặc điểm của tượng dạng thứ nhất nhưng hai cánh không xòe rộng mà cụp lại tạo phần lưng nhô cao thành một khối nổi tròn thể hiện các lớp lông hình tam giác nhỏ và những đường khắc vạch ngang mịn. Toàn bộ thân tượng thể hiện lớp lông vũ là hình mép vỏ sò mịn. Loại tượng này thường trang trí trên các di tích kiến trúc có niên đại sớm như chùa Phật Tích (Bắc Ninh) năm 1057-1065 và tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057.

Dạng thứ ba, tượng là một khối liền nhau. Tượng loại này có đặc điểm lưng gồm hai lớp nổi cao. Cánh và chân không được thể hiện rõ ràng mà gắn liền với thân. Lớp lông vũ là những dải chấm hất nhỏ li ti cùng những băng khắc vạch rất mịn. Loại tượng này hiếm, hiện chỉ thấy trang trí trên mái ngói ở Thăng Long (địa điểm số 18 – Hoàng Diệu).

Cũng như trang trí hình lá đề, tượng uyên ương thời Lý được làm bằng chất liệu mịn, độ nung cao. Bên cạnh loại chất liệu để mộc, xương gốm màu đỏ, màu đỏ sắc vàng hoặc màu vàng nhạt, không tráng men, loại chất liệu có tráng men màu xanh, xương gốm màu trắng.

Tượng uyên ương thời Lý nhìn chung có kích thước trung bình (22 x 14 x 10cm) hoặc (17 x 6 x 6cm), cá biệt có loại có kích thước nhỏ (10 x 6 x 5cm). Tượng được chạm khắc tỉ mỉ, chi tiết, bằng kỹ thuật khắc tay trực tiếp và in khuôn. Tuy nhiên, kỹ thuật khắc tay trực tiếp phổ biến hơn, thể hiện được các chi tiết tỉ mỉ, những nét chạm khắc nhiều mức độ nông sâu khác nhau.

Tượng uyên ương từ TK XIII đến đầu TK XV

Tượng uyên ương giai đoạn này trang trí trên mái các di tích kiến trúc có niên đại thời Trần như khu lăng mộ Tam Đường (Thái Bình), khu di tích Tức Mạc (Nam Định), kinh đô Thăng Long, chùa Báo Ân (Hà Nội), chùa Thông (Hòa Bình), di tích thời Trần – Hồ như đàn tế Nam Giao (Thanh Hóa). Tiếp nối nghệ thuật trang trí tượng uyên ương trên mái kiến trúc thời Lý, nghệ thuật trang trí tượng uyên ương giai đoạn này vẫn có hình thức gắn thêm trên ngói bò nóc, ngói mũi sen nhưng được biến đổi phong phú hơn, có loại mới. Các chi tiết trên mình uyên ương được giản lược hơn nhiều. Một số chi tiết, cấu trúc của tượng uyên ương thời L‎ý không còn nữa, mỏ dẹt, mồm không ngậm ngọc, mào trên mất hẳn, mỏ dài, mang tai và bờm không thể hiện rõ. Cổ ngắn, khá thẳng chứ không uốn cong như tượng uyên ương thời L‎ý. Thân tượng tròn mập hoặc thon dài. Lớp lông thể hiện là những đường khắc vạch chìm, những dải chấm hất hình tam giác thưa và thô. Đôi khi thân tượng chỉ được thể hiện là những nét khác vạch thưa hoặc để trơn. Cánh xòe rộng hoặc hơi cụp lại, giản lược đi chỉ còn một hoặc hai lớp cánh. Phần lưng tượng khá phẳng, không nổi cao như tượng thời Lý. Đuôi ngắn, có 1 hoặc 2 lớp với những khắc vạch chìm dọc thân đuôi. Tượng đôi khi chỉ được thu nhỏ như tượng lợp trên ngói bò nóc ở Thăng Long (Hà Nội). Sự giản lược còn ở yếu tố kỹ thuật: Bên cạnh kỹ thuật khắc tay trực tiếp, tượng uyên ương thời Trần còn được làm bằng khuôn.

Vẫn được làm bằng khối đặc nhưng thân tượng uyên ương thời Trần, Hồ được làm bằng kỹ thuật ghép từ hai phần nửa thân lại với nhau, như đã thấy ở Thăng Long (địa chỉ số 18 – Hoàng Diệu) và di tích Nam Giao (Thanh Hóa). Thời Trần còn xuất hiện thêm loại tượng uyên ương mới, được làm bằng khối rỗng như ở Thăng Long. Tượng có thân rỗng ở giữa, dáng tượng tròn, mập, ngắn. Cánh ngắn, chân không được thể hiện rõ nét, đuôi một lớp. Lông vũ thể hiện bằng những dải chấm hất hình tam giác thô và những đường khắc vạch chìm.

Tượng uyên ương giai đoạn này có kích thước trung bình (14 x 12 x 5cm), (16 x 14 x 8cm), (10 x 7 x 8cm). Tượng vẫn được làm bằng chất liệu đất nung, màu đỏ nhưng không được mịn như thời L‎ý và hiếm thấy loại chất liệu được tráng men.

Nhìn chung, cùng với các loại hình trang trí khác, tượng uyên ương thời Trần, Hồ được giản lược đi rất nhiều về chi tiết song lại đa dạng kiểu loại mới để phù hợp với mái kiến trúc đương thời.

Một số nhận xét ban đầu

Trang trí tượng uyên ương thể hiện tính truyền thống và đặc trưng thời đại cũng như nét chung và nét riêng giữa các di tích. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, tượng uyên ương về cơ bản đều có hình dáng chung là đều được trang trí dọc theo viên ngói. Tuy nhiên tính đặc trưng thời đại cũng nổi lên rất rõ. Tượng uyên ương TK X khỏe khoắn, với tư thế vươn mình về phía trước, ngoảnh mặt về phía sau và mang tính cách điệu cao. Tượng uyên ương TK XI – XII vẫn tư thế khỏe khoắn nhưng giàu tính hiện thực. Các chi tiết của tượng được thể hiện rõ nét, sống động. Bên cạnh việc bảo lưu truyền thống thể hiện là một khối tượng cách điệu từ TK X, tượng uyên ương thời Lý có sự biến đổi về tư thế, hoặc dang cánh như đang bay hoặc cánh chụm lại. Tượng uyên ương thời Trần, Hồ có xu hướng đơn giản và phóng khoáng. Thân tượng thời kỳ này có sự đa dạng về kiểu loại. Bên cạnh khối tượng đặc thời kỳ trước, xuất hiện thêm tượng khối rỗng và thân tượng tượng ghép nối từ hai mảnh lại với nhau. Nghệ thuật chạm khắc tượng được giản lược từ hoa văn đến kỹ thuật chế tác.

Riêng ở kinh đô Thăng Long, tượng uyên ương có nhiều điểm chung với tượng ở các di tích kiến trúc cùng thời khác nhưng cũng có những đặc trưng riêng biệt, chỉ thấy trên kiến trúc ở kinh đô Thăng Long. Loại tượng uyên ương làm bằng khối đặc liền khối, tượng khối rỗng hoặc tượng được làm bằng chất liệu xương gốm màu trắng, tráng men xanh, thì chỉ duy nhất thấy ở kinh đô Thăng Long. Điểm khác biệt này cho thấy mức độ quan trọng của việc trang trí kiến trúc cho kinh kỳ cũng như ý thức về đẳng cấp trong lĩnh vực này của người đương thời, từ tầng lớp lãnh đạo cao nhất cho đến các bậc nghệ nhân, thợ xây dựng vô danh.

Tượng uyên ương cùng với trang trí hình lá đề là những môtip trang trí độc đáo trên mái các công trình kiến trúc Bắc Bộ. Điều này gợi ra câu hỏi: vậy tượng uyên ương xuất hiện trên bộ mái kiến trúc thời kỳ này có ý nghĩa gì? Uyên ương (còn gọi là vịt) là một loại gia cầm quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Trong Phật giáo, vịt cũng là một biểu trưng và là một hóa thân của đức Phật, vịt cũng gắn bó với môi trường sông nước khi đức Phật tắm hoặc biểu diễn phép lạ trên sông Ni Liên Thuyền Sư hoặc trên hồ sen (3). Sự phổ biến của tượng uyên ương cùng với hình lá đề trên bộ mái kiến trúc từ TK X đến đầu TK XV đã phản ánh tính chất của một đất nước mà Phật giáo đang thịnh hành và trở thành tôn giáo chính thống. Loại tượng này cũng thường được trang trí với các mẫu hoa văn khác như hình lá đề, hoa sen … là loài hoa liên quan đến Phật giáo. Ngoài ra, chim uyên ương còn là loài chim biểu tượng cho tình yêu và lòng chung thủy (4). Do vật, một mặt nào đó, việc sử dụng môtip uyên ương một cách phổ biến còn phản ánh một cuộc sống thanh bình, ổn định của đất nước Đại Việt khi bước vào thời kỳ độc lập tự chủ.

Sự xuất hiện của tượng uyên ương trang trí trên mái kiến trúc là một đóng góp mới, góp phần tạo nên một truyền thống trang trí kiến trúc mới trong các di tích kiến trúc ở Bắc Việt Nam, trở thành đặc trưng nghệ thuật TK X – đầu TK XV cùng với các trang trí khác như hình lá đề. Trang trí bộ mái trước TK X chủ yếu là gắn vào đầu ngói ống và liền thân trên đầu ngói âm. Sự xuất hiện của tượng uyên ương trong TK X có thể coi là sự phản ánh tinh thần sáng tạo, độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam sau cả nghìn năm Bắc thuộc.

_______________

1. Tống Trung Tín, Những tượng vịt phát hiện ở Hoa Lư (Hà Nam Ninh), trong Những phát hiện mới về khảo c học năm 1988, tr.116 – 117; Trần Anh Dũng, Trần Thị Trúc Đào, Uyên ương thời Lý ở chùa Bà Tấm, Phật Tích, Dạm, trong Những phát hiện mới về khảo c học năm 2006, tr.526 – 527.

2. Ngô Thị Lan, Trang trí trên ngói ở Hoàng thành Thăng Long qua tư liệu khai quật hố D4-D5-D6 (khu D) địa điểm số 18 – Hoàng Diệu (Hà Nội). Luận văn Thạc sĩ, Tư liệu Viện Khảo cổ học, 2006.

3. Tống Trung Tín, Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (TK XI – XIV), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.100.

4. L‎ý Lược Tam, Huỳnh Ngọc Trảng, 800 mẫu hoa văn đồ cổ Trung Quốc, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 1996, tr.58.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 377, tháng 11-2015

Tác giả : NGÔ THỊ LAN

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *